(Saohathanh.com) – Hút mỡ và tạo hình thành bụng hiện nay đang trở thành xu thế chung toàn cầu với những kỹ thuật vô cùng tiên tiến và hiện đại. Khách hàng của Sao Hà thành sẽ có vòng eo đẹp chỉ sau vài giờ, hồi phục nhanh chóng, không để lại sẹo.

Sự tiến bộ vượt bậc của nền y học nói chung và ngành phẫu thuật thẩm mỹ nói riêng đã và đang giúp cho nhân loại ngày càng khỏe mạnh hơn, trẻ đẹp lâu hơn. Đó là cả quá trình nghiên cứu, phát triển không ngừng nghỉ của đội ngũ bác sĩ trên toàn cầu.


Tạo hình thành bụng 

Hơn 100 năm qua, có rất nhiều kỹ thuật tạo hình thành bụng khác nhau được mô tả. Tạo dáng cơ thể là chủ đề yêu thích của nhiều bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ. 

Sự xuất hiện của kỹ thuật hút mỡ và sự hiểu biết về co hồi da sau hút mỡ đã tạo ra xu hướng can thiệp ít xâm nhập và người bệnh nhanh phục hồi hơn. Đặc biệt, phẫu thuật tạo hình thành bụng giữ vai trò quan trọng nhất.

Phẫu thuật tạo hình thành bụng không chỉ cắt bỏ da thừa, mà còn giúp sửa chữa sự chùng giãn của cơ thẳng bụng, cơ chéo bụng ngoài.

Đây là phẫu thuật xâm nhập khá toàn tiện vào thành bụng, do đó nó có nguy cơ biến chứng và tử vong cao hơn phẫu thuật ít xâm nhập. Kỹ thuật này đòi hỏi óc tạo hình và kiến thức cao để xác định đường rạch và tạo ra một dáng cơ thể cụ thể.


Tư vấn miễn phí Hotline: 1900.4529


Thời kỳ bắt đầu cho kỷ nguyên của phẫu thuật hiện đại 

Suốt thế kỷ 20, có rất nhiều bác sĩ đã mô tả các kỹ thuật khác nhau nhằm tạo dáng thành bụng tốt và che dấu được sẹo. Tạo dáng cơ thể bắt đầu từ năm 1870, thời kỳ bắt đầu cho kỷ nguyên của phẫu thuật hiện đại. Khi đó giới hạn vùng cắt bỏ ở thành bụng là rất ít. 

Ca phẫu thuật cắt bỏ da mỡ thành bụng đầu tiên được thực hiện khi bác sỹ ngoại khoa thực hiện phẫu thuật chữa bệnh thoát vị rốn. Bác sỹ rạch hình cung quanh rốn và lấy bỏ mảng da – mỡ bụng khỏi cơ thể bệnh nhân. 

Năm 1890, tại Pháp, hai bác sĩ Derma và Marx lần đầu tiên mô tả kỹ thuật cắt da mỡ tối thiểu. Tại Mỹ, năm 1899, Kelly - Bác sĩ sản khoa - đã thực hiện phẫu thuật này lần đầu tiên, ông gọi là kỹ thuật cắt mỡ ngang bụng. Trong khi phẫu thuật chữa thoát vị, bằng đường mổ rạch ngang bụng, kéo dài sang hai bên hông. Tất cả màng căng thành bụng được cắt bỏ, nhưng không có phẫu tích nâng vạt da mỡ bụng khỏi cân cơ và phải hy sinh rốn. Sau đó, rất nhiều ca lâm sàng được ghi nhận tại châu Âu, đặc biệt ở Pháp. 
Năm 1905, hai bác sĩ Gaudet và Morestin đã thực hiện thành công ca lâm sàng cắt mỡ và da thừa bằng đường mổ ngang vùng bụng, chữa thoát vị lớn vùng thành bụng và lần đầu tiên ghi nhận kỹ thuật bảo tồn được rốn. 

Năm 1909, bác sĩ người Đức - Wein-Hold mô tả kỹ thuật đường rạch kiểu dáng cỏ ba lá, đây là kiểu rạch phối hợp giữa đường rạch dọc và đường rạch chéo (Cloverleaf) để cải thiện hình dáng vùng bụng.
Năm 1911, bác sĩ Desjadin thông báo ca bệnh cắt da và mỡ dưới da khối lượng 22,4kg theo đường mổ hình elip đứng dọc. Cùng năm đó, bác sĩ Amedee Morestin ghi nhận 5 ca được cắt mỡ bụng theo hình elip nằm ngang (giống như bác sĩ Kelly mô tả). Một bác sĩ khác là Jolly mô tả kỹ thuật cắt theo kiểu hình elip nằm ngang phía bụng dưới. 

Năm 1916, bác sĩ Babcock lần đầu tiên mô tả kỹ thuật cắt mỡ bụng theo hình elip đứng dọc và có phẫu tích bóc rộng sang hai bên. Ông mô tả đường rạch dọc hình elip, dọc theo chiều dài ổ bụng, và xử lý phần lỏng lẻo của thành bụng bằng các mũi chỉ bạc khâu vùi. 

Năm 1918, bác sĩ Schepelmann cải tiến kỹ thuật rạch da hình elip dọc của bác sĩ Babcock thành hình giọt nước từ mũi ức xuống xương mu. Kiểu rạch này làm cải thiện rất nhiều về hình dáng của ổ bụng.

Năm 1924, bác sĩ Thorek bắt đầu kỹ thuật rạch da kiểu ngang dưới rốn, cắt bỏ phần da dư và tổ chức mỡ dưới da đến lớp cân theo hình mép rạch da và đặt tên là kỹ thuật tạo hình cắt mô mỡ. Đặc biệt, kỹ thuật này có thể cắt rốn và ghép lại vào vị trí mới. 

Năm 1939, đội ngũ bác sĩ Fleisch, Thebesius và Wheisheimer đã cải tiến đường rạch của bác sĩ Thorek, trong đó bao gồm cả rốn. Năm 1939, bác sĩ Thorek tiếp tục mô tả kỹ thuật tạo hình mô mỡ của ông. Đến năm 1949, bác sĩ Pick Barsky đã cải tiến đường mổ của bác sĩ Thorek bằng cách thêm những đường cắt dọc ở cuối của đường mổ. 
Năm 1955, bác sĩ Galtier mô tả kỹ thuật mổ với đường rạch có 4 góc. Tới năm 1957, bác sĩ Vernon mô tả kỹ thuật của ông với đường rạch ngang phía bụng dưới, bóc tách tổ chức mỡ khỏi cân thành bụng và chuyển rốn. Kỹ thuật này được cải tiến bởi bác sĩ Dufourmental và Mouly vào năm 1959 với việc thêm đường rạch dọc ở đường giữa.

Từ năm 1960 - 1964, nhóm bác sĩ Gonzalez Ulloa, Vilain và Dubouset mô tả kỹ thuật tạo hình vòng quanh thành bụng giống như bác sĩ Pick và Barsky. 

Năm 1965, bác sĩ Spadafora đã cải tiến đường rạch bụng của bác sĩ Vernon xuống thấp hơn và ít lộ hơn. Đường rạch bắt đầu từ phía trong, vòng ra ngoài cong về hướng nếp lằn bẹn, sau đó cong ra trước và lên trên hướng về phía gai chậu trước trên. Chưa dừng lại ở đó, đến năm 1967, bác sĩ Callia tiếp tục cải tiến đường rạch của bác sĩ Spadafora xuống thấp hơn cả nếp lằn bẹn. Sẹo nằm dưới nếp lằn bẹn không những dấu được sẹo mà còn cải thiện được phần nào sa trễ vùng đùi.  

Như vậy, có thể thấy suốt từ năm 1890 đến năm 1967, có ba trường phái chính về cắt mỡ và tạo hình thành bụng là: Sẹo mổ ngang, sẹo mổ dọc và sẹo kết hợp giữa mổ dọc và mổ ngang.

Sau năm 1967, có nhiều sự cải tiến về kỹ thuật của Callia, tuy nhiên hầu hết đều ưa thích đường sẹo ngang nằm thấp để dấu sẹo.

Cùng năm 1967, bác sĩ Pitanguy thực hiện thành công hơn 500 ca phẫu thuật tạo hình thành bụng với đường rạch thấp ngang và đường rạch gốc đùi. Ông ủng hộ quan điểm phẫu tích nâng tổ chức mỡ khỏi thành bụng lên qua ranh giới bờ sườn, khâu bó cân cơ thẳng bụng và băng ép ngoài da. 
Năm 1972, bác sĩ Regnault mô tả kỹ thuật đường rạch chữ “W”, bà đã cải tiến kỹ thuật này năm 1975. Đường rạch bắt đầu 1-3cm từ điểm giữa đường mọc lông và nếp lằn mu, đi ra ngoài đến nếp lằn bẹn, mở rộng sang phía bên và hướng lên trên. Kỹ thuật này giảm thiểu sự đi lên cao của bộ phận sinh dục ngoài, và hạn chế sẹo khó coi. 

Năm 1973, bác sĩ Grazer thực hiện thành công 44 ca tạo hình thành bụng bằng đường rạch ngang theo nếp lằn bụng dưới, mở rộng sang hai bên và cong lên trên, định vị theo đường cạp quần lót. 

Năm 1977, nhóm bác sĩ Baker, Gordon và Mosienko báo cáo đây là kỹ thuật chuẩn của của tạo hình thành bụng. 

Năm 1978, bác sĩ Planas giới thiệu kỹ thuật Vest over pants - dùng đường rạch từ rốn, chéo xuống dưới và sang hai bên đến đường rạch ngang phía dưới. Vạt da mỡ vùng trên rốn được nâng lên khỏi cân thành bụng, kéo xuống che phủ phần dưới rốn, và được khâu đóng với mép da phía dưới theo kiểu của “vest over pants”. 

Phẫu thuật cắt mỡ vùng eo được thay thế bởi hút mỡ vùng bụng eo và tạo hình thành bụng vào năm 1980, và được phổ biến rộng rãi vào năm 1983 bởi bác sĩ Illouz. 

Với sự hỗ trợ của hút mỡ năm 1975, là sự hồi sinh của tạo hình thành bụng tối thiểu. Trước đó, tạo hình thành bụng Mini chỉ đúng cho những trường hợp dư da và mỡ ít tại vùng bụng dưới. Tạo hình thành bụng Mini được giới thiệu lần đầu tiên bởi bác sĩ Elbaz và Flageul năm 1971; nó được cải tiến năm 1975 bởi bác sĩ Glicentstein. Sau đó, bác sĩ Wilkinson và Swartz đã thực hiện thành công 35 ca tạo hình thành bụng mini, bác sĩ Greminger thực hiện thành công 14 ca.

Hút mỡ, tạo hình thành bụng đã tạo ra cuộc cách mạng mới về khái niệm tạo dáng cơ thể, tuy nhiên bạn hãy chọn cơ sở uy tín với đội ngũ bác sĩ tay nghề cao để đạt được kết quả tối ưu cùng độ an toàn tuyệt đối. 

Dưới đây là hình ảnh một số khách hàng trước và sau khi thực hiện hút mỡ kết hợp tạo hình thành bụng Inner Tight tại Thẩm mỹ viện Sao Hà Thành:


 


**Các dịch vụ đại phẫu được thực hiện hoàn toàn tại các bệnh viên chất lượng cao, nơi có đầy đủ trang thiết bị hiện đại, quy trình gây mê, chăm sóc hậu phẫu... theo đúng quy định của Bộ Y Tế.


👉Liên hệ ngay với thẩm mỹ viện Sao Hà Thành để được các chuyên gia tư vấn hoàn toàn miễn phí nhé

Tư vấn miễn phí Hotline: 1900.4529

 

Đăng ký để nhận tư vấn miễn phí

Nhập tên khách hàng
 

 1900.4529

 

Mục lục